Thực đơn
Trạng Trình Chú thích và nguồn dẫn...Nói tới văn hóa Việt Nam thực ra chỉ là nói đến thơ văn. Và thơ văn của chúng ta chỉ xuất hiện từ thời nhà Lý, nghĩa là từ thế kỷ 11 trở đi. Trước đó chúng ta có rất ít dấu tích thơ văn Việt Nam. Có thể là do hoàn cảnh lịch sử, những thơ văn của người Việt đã có trước thế kỷ 11 nhưng đã bị thất lạc. Nhưng cứ nhìn vào thành tích thơ văn của bốn thế kỷ Lý Trần, ta có thể khẳng định là thơ văn Việt Nam trước đó nếu có cũng không đáng kể, cả về phẩm lẫn lượng. Bốn trăm năm độc lập, dưới hai triều đại mà chúng ta cho là huy hoàng nhất trong lịch sử, chắc chắn thơ văn Việt Nam đã làm một bước nhảy vọt vĩ đại so với thời gian trước. Vậy nhìn vào thơ văn Lý Trần ta có thể hình dung được thơ văn trước đó.Những công trình khảo cứu đã tổng kết được khoảng hơn sáu trăm bài thơ và văn đủ loại trong bốn thế kỷ. Cứ coi là một số đã bị thất lạc và cộng thêm một ngàn bài nữa để đưa con số này lên một ngàn sáu trăm thì, nói chung, chúng ta cũng chỉ sáng tác được mỗi năm bốn bài. Các bài lại thường thường rất ngắn, có khi chỉ vài câu thôi. Trung bình mỗi bài chưa tới một trăm chữ. Như vậy, ngay cả nếu ước lượng một cách rất rộng rãi thì trung bình trong bốn thế kỷ cực thịnh đó cả nước đã chỉ sáng tác được mỗi ngày một chữ!Có một sự kiện cần lưu ý là sau khi tiêu diệt được nhà Hồ (năm 1407), hoàng đế Trung Quốc là Minh Thành Tổ đã ra lệnh cho quân Minh thu thập rồi tiêu hủy hay chở về Trung Quốc các tác phẩm bằng chữ Nho của Việt Nam. Lệnh này đã không được thi hành nghiêm túc (tại sao? phải chăng là các quan nhà Minh thấy chẳng có gì đáng kẻ?) nên Minh Thành Tồ phải ra một lệnh thứ hai quở trách quan tướng nhà Minh và đòi phải thi hành triệt đề. Nhà Minh đã cướp mất của chúng ta những gì không ai biết rõ. Trong "Việt Nam sử lược", Trần Trọng Kim dựa vào các pho sử có trước nói rằng quân Minh đã lấy của chúng ta 24 bộ sách. Thực tế có thể là hơn. Nhưng dựa vào những gì còn lại ta có thể kết luận là cũng không có gì đáng tiếc lắm, ít nhất về phẩm. Chúng ta hay nói tới các tác phầm của Chu Văn An, nhưng dựa vào những gì còn sót lại của Chu Văn An thì cũng có thể kết luận rằng các tác phẩm của ông cũng không có giá trị đặc biệt nào.Thơ văn Việt Nam thực ra chỉ khởi sắc dưới thời Hậu Lê với các tác giả Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, và chỉ phát triển mạnh từ thế kỷ 18 trở đi để đạt tới cao điểm vào thế kỷ 19 dưới triều Nguyễn, với các tác giả lớn như Lê Quý Đôn, Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Đặng Trần Côn, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Huy Tự, Phan Huy Chú, Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh, Dương Khuê… Sự khởi sắc đột ngột này có một nguyên nhân quan trọng, đó là thắng lợi của chữ Nôm trên chữ Hán.
Khi nhà Mạc giành ngôi nhà Lê thì Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ở tuổi 37 (1491-1527). Và khi vua cha Mạc Thái Tổ nhường ngôi cho vua con là Mạc Thái Tông thì Nguyễn Bỉnh Khiêm vừa tròn 40 tuổi, nghĩa là đúng vào cái tuổi “tứ thập nhi bất hoặc”. Ngoài những đợt nghỉ ngắn hạn, ông chỉ chính thức “huyền xa” (về trí sĩ) vào năm đã ở tuổi 73: “Điểm kiểm hành niên thất thập tam / Huyền xa sai vãn đã ưng tàm” (Đếm tuổi mình đã bảy mươi ba / Treo xe hơi muộn, cũng nên thẹn). Ông còn ân hận vì sức yếu rồi nên không giúp rập nhà vua được nữa: “Trì khu tự hứa ta vô lực / Vinh tiện hà cầu khởi thị tham” (Vốn tự thẹn đua bay với người, than ôi không đủ sức / Không cầu sang hèn đâu phải là tham) [Về hưu gửi quan Thượng thư bộ Lại Kế Khê bá Giáp Hải]. Trong khoảng 30 năm, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã hết lòng phò 4 triều vua Mạc – hành trạng của ông, thơ văn của ông và các bạn đồng liêu của ông đã minh định điều đó. Và phải lý giải sao cho thỏa đáng khi ông được phong tặng rất nhanh những chức tước quan trọng dưới triều các vua Mạc? Lý giải sao cho thấu tình đạt lý về hơn hai chục bài thơ nói về việc hộ giá nhà vua đi đánh giặc và không phải chỉ đi một lần? Chỉ cần đọc kỹ 4 bài viết về chuyện “hộ giá…” và sáu bài “Qua sông.. Hữu” cũng đủ hiểu cảm hứng và lòng chân thực của ông. Và tôi nhất trí hoàn toàn với Ngô Đăng Lợi rằng không thể coi lời thơ khen tặng của Lại bộ thượng thư Giáp Hải đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm là “lời nói vu vơ không căn cứ”: “Danh quán Nho gia lôi phấn địa / Lực phù nhật cốc trụ kình thiên / Tứ triều huân nghiệp nhân trung kiệt / Cửu lão quang nghi thế thượng tiên.” (Tiếng tăm ông lừng lẫy làng nho như sấm rền mặt đất / Năng lực của ông phò vua như cột chống đỡ trời / Huân nghiệp trải bốn triều, ông là tài năng kiệt xuất giữa cõi người / Dung nghi rực rỡ của tuổi chín mươi, ông khác gì vị tiên nơi trần thế.).Rõ ràng tuổi tác, hành trạng và tác phẩm của ông đã chứng minh rằng ông đi thi ở tuổi 44 và làm quan với nhà Mạc cho đến tận năm 73 là hoàn toàn tự nguyện, chẳng có chứng cứ nào nói lên rằng ông miễn cưỡng hay bị bó buộc. (...) Theo những chứng cứ mà tôi thu lượm được trong thư tịch xưa trên những văn bản đáng tin cậy thì không hề có chuyện vua Mạc mang theo đi trong hàng quân của mình một ông già đầy uy vọng nhưng lại thiếu tài thao lược. Trước hết phải nói rõ rằng nhà Mạc không hề thiếu những người có tài thao lược, chuyện này tôi sẽ đưa đủ chứng cứ trong phần bàn về nhà Mạc. Nếu Nguyễn Bỉnh Khiêm thiếu tài thao lược hoặc không lập nên công trạng gì đáng kể hẳn vua Mạc không cần phong tặng ông những chức tước quan trọng như thế (chức Lại bộ Thượng thư, Thái phó, tước Trình quốc công). Cũng không nên quá tin vào lối nói khiêm nhượng của ông mà tưởng thật rằng ông thiếu tài cán hoặc sự đóng góp mưu kế của ông là không đáng kể...GS. Vũ Khiêu cũng có những quan điểm tương đồng với Trần Khuê, “Tấm lòng của Nguyễn Bỉnh Khiêm và thái độ của ông do chính ông tự tay viết ra và còn để lại đã bác bỏ mọi sự xuyên tạc vô căn cứ về ông. Những lời tâm huyết trong thơ của ông khiến người đời sau phải suy nghĩ vì sao ông lại gắn bó với Mạc Đăng Dung và triều Mạc đến thế.”
Cự ngao đới sơn (phiên âm Hán-Việt)Bích tẩm tiên sơn triệt để thanh,Cự ngao đới đắc ngọc hồ sinh.Đáo đầu thạch hữu bổ thiên lực,Trước cước trào vô quyển địa thanh.Vạn lý Đông minh quy bả ác,Ức niên Nam cực điện long bình.Ngã kim dục triển phù nguy lực,Vãn khước quan hà cựu đế thành. | Con ngao lớn đội núi (dịch nghĩa)Nước biếc ngấm núi tiên trong đến đáy,Như con ngao lớn đội được bầu ngọc mà sinh ra.Ngoi đầu lên, đá có sức vá trời,Đặt chân xuống, sóng không có tiếng cuốn đất.Vạn dặm biển Đông quơ vào tay nắm,Ức năm cõi Nam đặt vững cảnh trị bình.Ta nay muốn thi thố sức phò nguy,Cứu vãn lại quan hà, thành cũ của nhà vua. |
Quá Trình Tuyền mục tự (phiên âm Hán-Việt)Tích văn Mạc Trình TuyềnKim đáo Tuyết kim tânCổ quán dư thương kệDi am chỉ Bạch vân.Bắc giang tăng Vạn Hạnh,Nam độ Tấn Tham QuânThao thao trục lưu MácChân tri hữu kỷ nhânViêm vận tao dương cửuGian hùng xuất chấn phươngTiêu sơn tăng dĩ hỉBạch Vân bất khả đương.Áo cơ thâm tạo hóaNhàn khí miểu công vương.Phiến ngữ toàn tam tínhHồn hỗn vị dị lương.Am không bi diệc diệtLưu lạc Tuyết kim giang. | Qua chùa cũ của Trình Tuyền (dịch nghĩa)Xưa nghe tiếng người (làng) Trình Tuyền đời MạcNay đến bên sông Tuyết KimQuán cổ còn lại tấm bia đá phủ rêu xanhDấu vết am chỉ còn mây trắng.Bắc Giang có Sư Vạn HạnhBến đò Nam có Tấn Tham QuânNước cuồn cuộn chảy xuống cuối dòngCó mấy ai được là “chân tri”Vận nước vùng nóng nực này gặp lúc rủi roỞ phương Đông xuất hiện kẻ gian hùng,Nhà sư ở chùa Tiêu Sơn không còn nữaBạch Vân cũng khó đảm đương nỗi.Mưu cơ sâu kín tham dự vào việc của tạo hóaPhong khí nhàn nhã xa cách các bậc công vươngChỉ câu nói ngắn mà bảo toàn được ba họRất hồn nhiên mà không dễ suy đoán đượcAm không, bia cũng hỏng mấtSông Tuyết Kim vắng vẻ đìu hiu. |
Thực đơn
Trạng Trình Chú thích và nguồn dẫnLiên quan
Trạng thái vật chất Trạng Quỳnh – Trạng Quỷnh Trạng Tí phiêu lưu ký Trạng nguyên (cây) Trạng thái oxy hóa Trạng Quỳnh Trạng thái bóng trên sân Trạng từ Trạng nguyên Trạng thái kích thíchTài liệu tham khảo
WikiPedia: Trạng Trình